Tăng cường đào tạo “pháp luật Thương mại điện tử”

Nguyễn Thị Vượng – trường Đại học Đông Đô

Mai Thị Thúy Linh- CH27AQLKT trường Đại học Thương Mại

Nguyễn Quốc Việt – Viện Khoa học quản lý và sáng tạo ứng dụng

Tăng cường Đào tạo học phần “Pháp luật Thương mại điện tử” để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho sinh viên ngành thương mại điện tử bậc đại học trong các trường Đại học tại Việt Nam hiện nay.

Tóm tắt: Hiện nay, đại dịch Covid 19 đang có nhiều chuyển biến tích cực do đã phủ Vaxcin và biến chủng đang dần giảm nguy hại đến tính mạng của con người. Tuy nhiên nhiều nước trên thế giới đang phải đối phó với tình trạng dịch bệnh lây lan rất nhanh khác đang xuất hiện như Khỉ đâu mùa, Cúm A, dịch tả lợn châu phi… Do vậy, hoạt động Bán và Mua hàng hóa bằng công cụ Thương mại điện tử (TMĐT) là phương thức kinh doanh của doanh nghiệp tốt nhất, giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn và thích nghi với xu hướng phát triển của thế giới. TMĐT mang lại nhiều lợi ích, giúp doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường bằng việc dễ dàng tiếp cận rộng lớn với khách hàng tiềm năng theo mô hình B2C và B2B và ngược lại khách hàng cũng có cơ hội được tiếp cận trực tiếp với các nhà sản xuất để có được giá rẻ, tăng cơ hội áo dụng mô hình C2C và C2B…

Hoạt động TMĐT cũng góp phần giúp hạn chế việc lây lan dịch bệnh CoVid 19 và một số dịch bênh khác mà người dân trên thế giới đang phải đối mặt. Tuy nhiên, lực lượng lao động trong nhóm ngành thương mại điện tử hiện nay đang đối mặt với nhiều vấn đề như thiếu kiến thức chuyên ngành hoặc kiến thức đã lỗi thời, thiếu cập nhật về xu thế và đặc biệt thiểu hiểu biết về pháp luật thương mại điện tử…thiếu đạo đức trong kinh doanh thương mại điện tử. Tình trạng khách hàng mất niềm tin vào lực lượng bán, mua hàng hóa trên thị trường thông qua công cụ thương mại điện tử cho thấy lượng lao động có chất lượng được đào tạo bài bản thuộc chuyên ngành TMĐT hoặc cử nhân đại học TMĐT đang còn thiếu và yếu khiến các doanh nghiệp khó khăn trong việc tuyển dụng, nâng cao chất lượng dịch vụ TMĐT.

Trên cơ sở phân tích thực trạng các vi phạm về hàng hóa, về giao dịch… của hoạt động Thương mại điện tử và chương trình đào tạo học phần “Pháp luật thương mại điện tử” của các trường đại học, cao đẳng đang đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực TMĐT ở Việt Nam, bài viết đưa ra quan điểm tiếp cận góc độ chất lượng chuẩn đầu ra của người học về tiêu chí Kiến thức, đạo đức kinh doanh và các hệ quả không tích cực của lực lượng tham gia TMĐT hiện nay, từ đó đề xuất các giải pháp, khuyến nghị như thay đổi chương trình đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Thương mại điện tử cho sinh viên và người lao động đang tham gia kinh doanh thông qua các công cụ TMĐT.

Đặt vấn đề:

Hiện nay chúng ta đang sống trong thời đại 4.0- thời kỳ của sự phát triển của công nghệ, đó là sự phát triển liên quan đến hệ thống vật lý không gian mạng Internet. Công nghệ đã, đang và sẽ tạo ảnh hưởng to lớn lên tất cả các ngành và lĩnh vực đời sống, đặc biệt đó là sự phát triển mạnh mẽ của Thương mại điện tử.

Thương mại điện tử là một trong những lĩnh vực phát triển mạnh mẽ cả về tốc độ lẫn phạm vi kể từ khi đại dịch Covid 19 đến nay. Báo cáo chỉ số thương mại điện tử (EBI) năm 2022 do Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM) công bố mới đây cho thấy, tốc độ tăng trưởng của thương mại điện tử (TMĐT) Việt Nam năm 2022 có thể ở mức cao nhất từ trước tới nay. Cụ thể, trong khó khăn chung của nền kinh tế trong hơn 2 năm qua do ảnh hưởng của dịch Covid-19, tác động đến hoạt động thương mại toàn cầu cũng như tại Việt Nam, nhưng lĩnh vực TMĐT tiếp tục duy trì được đà phát triển nhanh và ổn định.

Ước tính năm 2021, lĩnh vực này đạt tốc độ tăng trưởng trên 20% và đạt quy mô trên 16 tỷ USD. Tốc độ này sẽ cao hơn nhiều trong năm 2022 nhờ kiểm soát tốt đại dịch Covid-19 và những động lực tăng trưởng từ “làn sóng thứ hai”. Tuy nhiên, báo cáo EBI cũng nhấn mạnh sự phát triển nhanh của TMĐT ở Việt Nam còn phụ thuộc rất lớn vào khả năng thu hút vốn đầu tư vào các nền tảng trong hệ sinh thái kinh doanh trực tuyến, cũng như nguồn nhân lực chất lượng cao. Từ khi đại dịch bùng phát vào cuối năm 2019, nhu cầu mua sắm thông qua các sàn thương mại điện tử đã trở nên tăng nhanh.

Theo thống kê, cho đến nay, có đến 70% dân số Việt Nam tiếp cận với mạng Internet và có 53% người dân có ví điện tử để thanh toán trực tuyến. Trong đó, 2 thị trường đô thị lớn nhất Việt Nam là Hà Nội và Hồ Chí Minh có tỷ lệ chiếm tới  70% tổng lượng giao dịch trên các sàn thương mại điện tử. Theo khảo sát của Sapo, có 30,6% trong 10.000 đơn vị bán hàng cho rằng họ có những thay đổi tích cực khi áp dụng mô hình TMĐT. TMĐT mang đến doanh thu cao hơn với các năm trước. Bên cạnh những điểm sáng của ngành TMĐT đó, những thách thức nền thương mại điện tử ở Việt Nam gặp phải trong quá trình hoạt động và phát triển, ngành thương mại điện tử ở Việt Nam cũng gặp phải những thách thức như:  Lòng tin của người tiêu dùng vào các sản phẩm mua bán trên sàn thương mại điện tử hoặc bằng các công cụ hỗ trợ internet khác còn thấp.

Theo một số thống kê, tỷ lệ người mua hàng lựa chọn thanh toán theo phương thức thanh toán khi nhận hàng hay còn gọi là COD là 88%. Đây là một con số cao, dựa vào chỉ số này chúng ta có thể thấy lòng tin của người mua hàng khi mua hàng trên sàn TMĐT còn thấp. Thậm chí nhiều người còn quyết định không mua hàng nếu đơn vị kinh doanh không có hình thức COD. Hay hàng nhái, hàng giả, hàng không có nguồn gốc được bán tràn lan trên các nền tảng TMĐT như Shopee, lazada, Tiki, Sendo… Theo một khảo sát hài lòng khi mua hàng trực tuyến, chỉ số người hài lòng chỉ có 48%. Lý do khiến khách hàng thiếu niềm tin như vậy là bởi:  Khách hàng không được kiểm định chất lượng hàng hoá, thiếu niềm tin vào đơn vị bán hàng chất lượng thực sự so với những quảng cáo, đạo đức trong kinh doanh, hiểu biết về pháp luật TMĐT còn rất hạn chế.

Vậy nguyên nhân sâu xa dẫn đến thực trạng làm mất niềm tin của khách hàng là do đạo đức trong kinh doanh của người bán, hiểu biết pháp luật thương mại điện tử của người bán…và mấu chốt là công tác đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng có đào tạo ngành Thương mại điện tử đang chưa được điều chỉnh kịp thời so với tốc độ bùng nổ của thương mại điện tử trong 3 năm gần đây (từ đại dịch Covid 19 đến 2022).

Vì vậy nhóm tác giả lựa chọn hướng luận đàm tập trung tìm hiểu và đàm luận dưới góc độ tiếp cận đánh giá thực trạng và tiên liệu chất lượng nguồn nhân lực tham gia kinh doanh thương mại điện tử theo mô hình đánh giá năng lực ASK (kiến thức, kỹ năng, Thái độ) cần thiết hiện nay và trong tương lai để khuyến nghị các cơ sở đào tạo có bước hiệu chỉnh về chương trình đào tạo phù hợp với thực tiễn hơn giúp người học, người kinh doanh qua các công cụ TMĐT có nền tảng Tri thức, Đạo đức trong kinh doanh qua đó người tiêu dùng được đảm bảo quyền lợi tốt hơn, nhà sản xuất chân chính được bảo vệ, nhà phát minh được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ…

  1. Cơ sở lý thuyết và nội dung nghiên cứu

1.1. Các khái niệm

Theo tác giả Christian Schulze, thương mại điện tử là hoạt động thương mại được thực hiện bằng máy tính liên kết với nhau bởi mạng viễn thông. Theo cách định nghĩa này có thể hiểu thương mại điện tử theo hai phương diện: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, thương mại điện tử chỉ là các giao dịch hợp đồng trên Internet bao gồm quá trình đàm phán, giao kết hợp đồng bằng thư điện tử (email). Nếu tiếp cận theo nghĩa rộng, thương mại điện tử sẽ bao quát tất cả các hoạt động khi một doanh nghiệp sử dụng Internet như một phương tiện để thực hiện các hoạt động kinh doanh.

1.2. Ưu điểm của thương mại điện tử đối với Nhà nước, Doanh nghiệp, Người tiêu dùng

  • Đối với doanh nghiệp: Ứng dụng thương mại điện tử, doanh nghiệp có thể thu thập được thông tin đầy đủ và kịp thời. Thương mại điện tử giúp cho doanh nghiệp giảm được chi phí. Thương mại điện tử giúp cho doanh nghiệp trong việc thiết lập và củng cố quan hệ với các đối tác.
  • Đối với người tiêu dùng: thương mại điện tử cũng đem lại không ít lợi ích chẳng hạn, người tiêu dùng sẽ không phải mất thời gian và chi phí để đi đến cửa hàng; đồng thời, phạm vi lựa chọn mặt hàng rộng hơn vì có thể truy cập vào nhiều trang web, tiếp cận trực tiếp với nhiều nhà cung cấp hàng hoá khác nhau; vì bỏ qua được các khâu trung gian nên người tiêu dùng có thể mua hàng với giá rẻ nhất. Ngoài ra, thông qua Internet người tiêu dùng còn có nhiều cơ hội để tiếp xúc với kho tàng văn hoá, kiến thức rộng lớn của thế giới nhằm nâng cao trình độ và cải thiện cuộc sống. Thương mại điện tử đặc biệt có ý nghĩa đối với các nước đang phát triển, với các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng tại các vùng biệt lập, xa xôi, ít có cơ hội giao dịch, thiếu thông tin, thiếu đối tác thì chỉ với một số trang thiết bị được kêt nối Internet và nhân sự cần thiết họ có thể dễ dàng tiếp xúc với thị trường rộng lớn trong nước cũng như ngoài nước.
  • Đối với Nhà nước: Thương mại điện tử giúp cho các cơ quan nhà nước tinh giản bộ máy hành chính, giảm các chi phí hành chính, công tác báo cáo và thống kê chính xác hơn, nhanh hơn và đầy đủ hơn. Trong giao dịch giữa cơ quan nhà nước với các doanh nghiệp (G2B) như thương mại điện tử sẽ giúp các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp có điều kiện giao tiếp và hợp tác với nhau nhiều hơn. Trong giao dịch giữa các cơ quan nhà nước với người dân (G2C) như Việc công khai đưa lên mạng các chính sách, quy định của các cơ quan nhà nước sẽ giúp cho người dân nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt được và qua đó giảm bớt được những phiền hà, tiêu cực trong bộ máy nhà nước, làm tăng thêm lòng tin của dân chúng đối với cơ quan nhà nước. Ngoài ra hình thức giao dịch giữa Chính phủ với Chính phủ giúp cho Chính phủ các nước có thể trao đổi thông tin với nhau một cách nhanh chóng, đầy đủ, chính xác hơn và với chi phí ít hơn nhiều so với trước đây.

1.3. Khái niệm và Nội dung của Pháp luật thương mại điện tử

Theo tác giả Lê Văn Thiệp: “Pháp luật thương mại điện tử là tổng hợp các nguyên tắc, quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các chủ thể là cá nhân, tổ chức thực hiện các hoạt động thương mại được thực hiện một phần hay toàn bộ quy trình thương mại bằng các phương tiện điện tử có kết  nối  với  mạng  internet,  mạng  viễn  thông  di  động  hay các mạng mở khác.”

Nội dung Pháp luật thương mại điện tử mà Người bán cần phải hiểu được và cần phải áp dụng như: Pháp luật về thông điệp dữ liệu; Pháp luật về chữ ký điện tử; Pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử; Pháp luật về thanh toán trong thương mại điện tử; Pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử; Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử.

1.4. Nguồn nhân lực trong thương mại điện tử

Phát triển TMĐT cần phải có hội đủ một số cơ sở như hạ tầng cơ sở internet đủ nhanh, mạnh đảm bảo truyền tải nội dung, hệ thống thanh toán bảo mật, phải có hệ thống an toàn cho các giao dịch, và quan trọng hơn là đội ngũ nhân lực hiểu kinh doanh, công nghệ thông tin để triển khai tiếp thị, quảng cáo, xúc tiến, bán hàng và thanh toán qua mạng. Theo báo cáo của Bộ Công thương về nguồn nhân lực cho TMĐT (2018) thì chất lượng đội ngũ nhân lực phải đảm bảo như sau:

Thứ nhất, TMĐT được tiến hành trong môi trường điện tử, dựa trên những quy định riêng và yêu cầu riêng,… Do đó, người lao động trực tiếp và quản lý phải hiểu rõ về thao tác kỹ thuật, nguyên tắc trong kinh doanh trực tuyến.

Thứ hai, công nghệ thông tin như kỹ thuật truyền dẫn thông tin, địa chỉ miền, các trang tin để tiến hành giao dịch, là nền tảng của TMĐT. Song song với đó, tốc độ thay đổi của công nghệ diễn ra nhanh chóng, công nghệ mới thường xuyên ra đời cho nên những nhân lực TMĐT cần nắm bắt kịp thời và vận dụng thành thạo các ứng dụng này khi giao dịch cũng như nắm bắt những cơ hội kinh doanh mới trong thương mại điện tử.

Thứ ba, TMĐT là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế tri thức. Do đó, nhân lực thương mại điện tử, dù đó là người thực hiện hay người quản lý, đều là những đối tượng lao động có hàm lượng tri thức cao. Họ cần đuợc tiến hành đào tạo có hệ thống, trải qua các trình độ từ cơ bản đến chuyên sâu tương ứng với từng vị trí, từng nhiệm  vụ và theo từng chuyên ngành cụ thể.

2. Nội dung đàm luận

Trên cơ sở thu thập, tổng hợp và phân tích các dữ liệu thứ cấp những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn chất lượng lực lượng lao động tại Việt Nam nói chung và lực lượng lao động đang hoạt động trong lĩnh vực TMĐT nói riêng để đánh giá được thực trạng chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực TMĐT ở nước ta hiện nay.

Các dữ liệu về lao động Việt Nam được thu thập từ giai đoạn 2016-2021 với các tiêu chí đánh giá về trình độ và kinh nghiệm của lực lượng lao động, đánh giá của doanh nghiệp về năng lực của nhân viên, Đánh giá của các chuyên gia về thực trạng chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam. Từ đó so sánh với với yêu cầu của quốc tế sự thay đổi kỹ năng của người động khi có TMĐT. Đó là cơ sở nền tảng để đề xuất các khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho lĩnh vực TMĐT tại Việt Nam trong thời gian tới.

2.1. Thực trạng nguồn nhân lực thương mại điện tử Việt Nam

Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM) đánh giá nhu cầu tuyển dụng nguồn nhân lực thương mại điện tử chất lượng cao giai đoạn năm năm 2016 – 2020 tăng nhanh và dự đoán nhu cầu này tiếp tục tăng nhanh hơn nữa trong giai đoạn 2021 – 2025. Tốc độ phát triển nhanh của ngành TMĐT kéo theo nhu cầu nguồn nhân lực ngày càng cao. Tuy nhiên, theo Báo cáo Chỉ số TMĐT Việt Nam năm 2021 của Hiệp hội TMĐT Việt Nam (VECOM), trong nhiều năm liền, nguồn nhân lực cho TMĐT và đặc biệt nguồn nhân lực chất lượng cao luôn là vấn đề lớn gây cản trở cho quá trình phát triển TMĐT trong nước. (Hình 1: Tỷ lệ doanh nghiệp có lao động chuyên trách TMĐT phân theo quy mô)

Theo các chuyên gia trong lĩnh vực TMĐT, thực tế nguồn nhân lực ngành TMĐT cần có kiến thức rộng trong nhiều lĩnh vực như kinh tế, công nghệ thông tin, quản trị và ngoại ngữ nên đòi hỏi thời gian đào tạo dài, các lớp ngắn hạn và dạy nghề chỉ giải quyết tạm thời trong thời điểm thiếu nhân lực. Do vậy, đào tạo chính quy dài hạn tại các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng trở thành “cứu cánh” cho nhân lực của TMĐT.

Số liệu thống kê của Cục TMĐT và Công nghệ thông tin cho thấy, trong giai đoạn 2005 – 2015, các trường đại học và cao đẳng đào tạo có chuyên ngành đào tạo TMĐT đã được bổ sung và nâng lên trên 90 trường. Từ năm 2017 đến nay, một số trường tiếp tục mở rộng lĩnh vực đào tạo TMĐT, nâng số trường đào tạo ngành TMĐT… (Hình 2: Tỷ lệ doanh nghiệp gặp khó khăn khi tuyển dụng lao động có kỹ năng về TMĐT và CNTT)

Kết quả khảo sát của VECOM tại Báo cáo Chỉ số TMĐT Việt Nam năm 2021 cho thấy, tỷ lệ DN có lao động chuyên trách về TMĐT lại giảm nhiều so với các năm trước, một phần cũng do tác động lớn của đại dịch và áp lực về tài chính nên việc cắt giảm biên chế và kiêm nghiệm nhiều vai trò được các công ty triển khai để duy trì hoạt động trong giai đoạn khó khăn. Xét về quy mô DN thì nhóm các DN vừa và nhỏ có tỷ lệ lao động chuyên trách về TMĐT chỉ bằng một nửa so với nhóm các DN lớn. Nghệ thuật – vui chơi – giải trí và Thông tin – truyền thông là hai lĩnh vực có tỷ lệ lao động chuyên trách về TMĐT cao nhất, chiếm lần lượt là 45% và 42% trên tổng số DN tham gia khảo sát trong cùng lĩnh vực kinh doanh. Tiếp theo sau đó là lĩnh vực hoạt động tài chính – ngân hàng – bảo hiểm (38%) và hoạt động chuyên môn – khoa học – công nghệ (31%).

Kết quả khảo sát của VECOM cũng cho thấy, trong vòng 3 năm trở lại đây, xu hướng DN gặp khó khăn khi tuyển dụng lao động có kỹ năng về TMĐT và công nghệ thông tin ngày càng tăng. Đẩy mạnh việc đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực này cả theo hình thức chính quy và không chính quy đều là những vấn đề lớn cần được quan tâm trong giai đoạn tới. Kỹ năng quản trị website và sàn giao dịch TMĐT vẫn là kỹ năng được DN quan tâm nhiều nhất trong những năm gần đây, 46% DN cho biết họ gặp khó khăn khi cần tuyển dụng lao động có kỹ năng này. Đơn cử như ý thức đảm bảo quyền lợi của khách hàng và ý thức chấp hành pháp luật thương mại điện tử của người bán khi tham gia thương mại điện tử còn yếu kém.

Các cá nhân hàng online trên zalo, viber, facebook, app thương mại điện tử…tự tạo các gian hàng và coi đó là việc làm phụ, kiếm thêm thu nhập. Hàng hóa của họ thường qua bên thứ 3 là các kho tổng, nhiệm vụ của người bán là chốt các đơn hàng để ăn chênh lệch phần tram do các kho tổng xây dựng chính sách cho người bán. Chính vì vậy, ý thức hàng thật,  hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, hàng không có xuất xứ, không chính xác nguồn gốc của người bán hưởng phần trăm trên các nền tảng facebook, zalo, viber, shopee, lazada, sendo, tiki…không quan tâm, cho rằng mọi trách nhiệm là kho tổng chịu vì kho tổng, công ty thương mại là nơi đóng gói chuyển hàng đi. Hình thức này người bán với vai trò bán hàng thuê (tự chủ về thời gian, tự chủ chốt đơn dựa theo tỉ lệ hưởng phần tram từ kho tổng hoặc các công ty thương mại).

Vấn đề đạo đức trong kinh doanh đang là vấn đề nổi cộm trong thương mại điện tử hiện nay và điều này cũng có nguyên nhân bắt nguồn từ công tác cập nhật kiến thức về pháp luật thương mại điện tử.

Khảo sát nhanh về trình độ được đào tạo chuyên nghiệp của người bán khi tham gia kinh doanh bằng công cụ thương mại điện tử kết quả cho thấy:

  • Đối với các cá nhân bán hàng online trên zalo, viber, facebook, app thương mại điện tử… là người không đươc đào tạo chính quy chuyên ngành thương mại điện tử. Nguồn nhân lực này chỉ học mót qua các bạn, nhóm và qua các gói đào tạo từ những huấn luyện viên tự nhận “chuyên gia thương mại điện tử”. Do đó về hiểu biết pháp luật khi tham gia kinh doanh bằng hình thức thương mại điện tử chiếm tỉ lệ 98% (theo khảo sát các chương trình đào tạo, huấn luyện của các tổ chức, cá nhân không có học phần pháp luật thương mại điện tử), nếu có thì chỉ là giới thiệu một chút về pháp luật và hầu hết không đả động gì đến pháp luật thương mại điện tử để người học hiểu biết áp dụng đảm bảo quyền lợi cho chính người bán và đảm bảo quyền lợi cho người mua.
  • Đối với các cá nhân bán hàng online trên zalo, viber, facebook, app thương mại điện tử… là người đươc đào tạo chính quy chuyên ngành TMĐT, qua khảo sát cho thấy 75% có biết về pháp luật thương mại điện tử nhưng trong tình trạng mơ hồ (vì tự nghiên cứu tìm hiểu) và 25% còn lại không biết gì về học phần này (hiện nay, 80% các chương trình đào tạo bậc đại học, cao đẳng chính quy đưa học phần pháp luật thương mại điện tử là học phần tự chọn, 20% là học phần bắt buộc nhưng lại là chương trình đào tạo của bậc cao đẳng, thậm chí có trường đại học có chuyên ngành thương mại điện tử mới thành lập được 1 khóa nhưng trong trương trình đào tạo không có học phần “Pháp luật thương mại điện tử” trong cả bắt buộc, tự chọn, bổ trợ).

2.2.Thực trạng chương trình đào tạo ngành thương mại điện tử của các cơ sở đào tạo

Theo Quyết định số 645/QĐ-TTg ngày 15 tháng 5 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử quốc gia giai đoạn 2021- 2025 đã đặt ra hai mục tiêu về đào tạo nguồn nhân lực. Mục tiêu thứ nhất là 50% cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp triển khai đào tạo thương mại điện tử. Mục tiêu thứ hai là một triệu lượt doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cán bộ quản lý nhà nước, sinh viên được tham gia các khoá đào tạo về kỹ năng ứng dụng thương mại điện tử. Hiện nay, có 36 trường đào tạo thương mại điện tử trình độ đại học, trong đó 14 trường ở miền Bắc, 5 trường ở miền Trung và 17 trường ở miền Nam. Đồng thời có 37 trường đào tạo chuyên ngành thương mại điện tử và trên 60 trường đào tạo học phần thương mại điện tử. Tính chung đã có trên 110 trường giảng dạy thương mại điện tử từ mức học phần tới ngành đào tạo.

Trong đó hầu hết các trường đã giao cho khoa kinh tế, quản trị kinh doanh hay hệ thống thông tin quản lý đào tạo cử nhân thương mại điện tử. Chương trình đào tạo ngành thương mại điện tử cơ bản bám sát chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo, bao gồm học phần chung và học phần tự chọn với số tín chỉ dao động trong khoảng 130 – 140. Chẳng hạn, chương trình đào tạo ngành thương mại điện tử của Đại học Thương mại bao gồm 139 tín chỉ. Trong khi đó, chương trình của Trường đại học Công nghệ thông tin – Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh bao gồm 126 tín chỉ.

Hiện nay, chương trình đào tạo ngành thương mại điện tử của hai trường đầu tiên mở ngành đào tạo này là Trường Đại học Thương mại và Trường Đại học Công nghiệp Tp. Hồ Chí Minh. Hai chương trình này được nhiều trường đại học khác tham khảo khi xây dựng ngành thương mại điện tử của mình. Đồng thời, đây cũng là hai chương trình đào tạo ngành thương mại điện tử đầu tiên đã tiến hành kiểm định chất lượng và được công nhận đạt theo tiêu chuẩn trong nước. Cũng trong 36 trường đã đào tạo chuyên ngành thương mại điện tử, thì có 23 trường vừa có ngành vừa có chuyên ngành, 14 trường chỉ có chuyên ngành.  Đặc biệt, Thương mại điện tử có mối quan hệ liên ngành cao. Khảo sát 68 phiếu trả lời cho thấy có tới 86% các trường trả lời đã giảng dạy học phần Tiếp thị số, 78% giảng dạy học phần Logistics và Quản lý chuỗi cung ứng, 69% giảng dạy học phần thanh toán trực tuyến.

Học phần Pháp luật về thương mại điện tử cũng được quan tâm cao khi có tới 63% các trường giảng dạy. Tuy nhiên, nhóm tác giả đã so sánh mối quan tâm của các trường đến học phần Pháp luật về thương mại điện tử để đối chiếu với chương trình đào tạo ngành thương mại điện tử thì mối quan tâm 63% chưa thực sus75 thuyết phục vì học phần này có tới 75% các cơ sở xếp vào dạng học phần tự chọn và có 2 tín chỉ chứ chưa phải là học phần bắt buộc, thậm chí có trường còn không có học phần này trong chương trình đào tạo. Chỉ số ít các trường cao đẳng lại quan tâm đào tạo bắt buộc học phần này tới 4 tín chỉ (điển hình như trường cao đẳng Kinh tế Hà Nội. Hình 3: Tỷ lệ % các trường giảng dạy học phần liên quan thương mại điện tử.

Theo khảo sát nhanh của sinh viên một số trường Đại học, cao đẳng đang học ngành thương mại điện tử về hiểu biết những nội dung pháp luật thương mại điện tử gồm có những nội dung nào thì 85% sinh viên không trả lời được hết các nội dung của học phần Pháp luật TMĐT gồm có những nội dung gì hoặc hiểu lơ mơ về pháp luật thương mại điện tử, 15% sinh viên có đăng ký học phần này hoặc  được đào tạo là môn học bắt buộc thì trả lời được nội dung và tầm quan trọng của môn pháp luật thương mại điện tử. Lý giải về không hiểu rõ kiến thức này sinh viên cho rằng: không phải là môn bắt buộc và cũng không có nhu cầu tìm hiểu vì sau này đi làm sẽ vướng đâu gỡ đấy.

Về giáo trình giảng dạy thương mại điện tử, kết quả khảo sát cho thấy 81% các trường tham khảo giáo trình của các trường tiên phong trong đào tạo ngành thương mại điện tử, 67% sử dụng giáo trình của nước ngoài và 56% trường tự biên soạn giáo trình.

2.3. Thực trạng các vi phạm về pháp luật thương mại điện tử

Thương mại điện tử (TMĐT) là xu thế tất yếu của thời đại công nghệ nhưng lại là thách thức lớn cho công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả. Lãnh đạo Tổng cục QLTT dự báo, trong khoảng 2 đến 3 năm gần đây, tỷ lệ gian lận thương mại trên TMĐT sẽ chiếm khoảng 50 – 60% so với tổng thể các hình thức gian lận thương mại nói chung.

Trong 9 tháng đầu năm 2020, lực lượng Quản lý Thị trường cả nước đã thực hiện kiểm tra 2.403 vụ việc, xử lý 2.213 vụ việc vi phạm, xử phạt trên 16 tỷ đồng, trị giá hàng vi phạm gần 41 tỷ đồng (bao gồm những hành vi vi phạm về thương mại điện tử và các hành vi lợi dụng thương mại điện tử để kinh doanh hàng hóa nhập lậu, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng giả).

Và cứ thế mỗi năm có hàng ngàn vụ vi phạm trong thương mại điện tử. số liệu các vụ vi phạm càng ngày càng tăng dần đơn cử tính đến tháng 10/2021, lực lượng quản lý thị trường cả nước đã thực hiện kiểm tra gần 2.500 vụ việc, phát hiện, xử lý trên 2.300 vụ vi phạm (bao gồm hành vi vi phạm về thương mại điện tử và các hành vi lợi dụng thương mại điện tử để kinh doanh hàng hoá nhập lậu, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng giả), xử phạt trên 18 tỷ đồng. Trong 6 tháng đầu năm 2022, cả nước đã phát hiện, xử lý gần 54,2 nghìn vụ việc vi phạm và gian lận thương mại trên TMĐT vẫn chiếm 50-60% tổng số các vụ vi phạm. Các hành vi chủ yếu như:

  • Gian lận trong thanh toán: trong hệ thống thanh toán khi mua hàng trực tuyến có 2 dạng:

+ Hình thức người mua chuyển tiền trước cho người bán rồi người bán chuyển hàng sau khi nhận được tiền của khách hàng. Ở hình thức thanh toán này đã có nhiều vụ khách hàng chuyển tiền xong cho người bán thì người bán không chuyển hàng hoặc xóa luôn tài khoản dùng để giao dịch. Minh chứng thường thấy là giao dịch trên facebook, zalo, viber (được lập bằng sim rác và email giả)…

+ Hình thức người mua trả tiền thông qua người giao hàng (COD). Hình thức này thường xẩy ra gian lận khi người bán không cho người mua mở kiểm tra hàng và sau khi người bán trả tiền, mang hàng về mở ra thì thấy không đúng so với đơn đặt hàng, nhiều khi là hàng hỏng, nhiều khi là hàng kém chất lượng, nhiều khi là cục đá, cục gạch…không phải hàng hóa. Khách hàng có khiếu kiện thì người bán cũng chối bỏ trách nhiệm hoặc chặn liên lạc.

– Gian lận trong nguồn gốc xuất xứ hàng hóa và hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng:

+ Ở hình thức này qua số liệu cho thấy số lượng ngày càng tăng cao, tinh vi. Điển hình các vụ vi phạm hàng giả, hàng nhái của các thương hiệu nổi tiếng từ các cuộc điều tra của các kho tổng trên toàn quốc như Kho tổng tại tỉnh Nam Định, Phú Thọ, Hà Nội… Hình thức này người bán thường thông qua hệ thống phân phối bán lẻ tại các địa phương là các cá nhân bán hàng qua zalo, facebook. Các cá nhân này thường là cán bộ công nhân viên chức, giáo viên tranh thủ kinh doanh thêm.

Các kho tổng có chính sách cho gối đầu vốn hàng (vì số lượng tiền trên mỗi đơn hàng của các cá nhân thường ít (trong phạm vi 2 triệu trở về) và thường chủ yếu là các kho hàng gia dụng, giá trị của hàng hóa nhỏ. Hình thức này hầu hết là hàng không rõ nguồn gốc, các cá nhân lấy hàng không có hóa đơn và các chế độ bảo hành (nếu có) cũng rất khó liên lạc được với nhà sản xuất và thường là giấy bảo hành giả.

Theo phỏng vấn của 100 giáo viên, viên chức tham gia bán hàng online tại một thành phố của tỉnh Ninh Bình cho thấy 100% các nhân viên bán hàng online không chuyên nghiệp này rất tin tưởng xuất xứ hàng bán từ các kho tổng là hàng không vi phạm pháp luật. Đối với hàng bị hỏng hoặc kém chất lượng, nếu khách hàng là người yêu cầu phải đổi mới hoặc trả lại tiền đều được thông qua người bán là kênh bán lẻ. Các kho tổng thường có chính sách hòa giải để tránh người bán lẻ bị khách hàng tung lên thông tin đại chúng “đứt dây động rừng”…

2.4. Thực trạng khung pháp lý về pháp luật thương mại điện tử

Trong bối cảnh hiện nay, luật thương mại điện tử và nghị định thương mại điện tử mới nhất số 14/VBHN-BCT được ký ngày 19 tháng 11 năm 2021  và Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2022. Nghị định bổ sung chi tiết các điều khoản, mục của nội dung pháp luật thương mại điện tử trong tình hình mới. cụ thể như: pháp luật về dữ liệu; Pháp luật về chữ ký điện tử; Pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử; Pháp luật về thanh toán trong thương mại điện tử; Pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử; Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử.

Đây là minh chứng cho tầm quan trọng của pháp luật thương mại điện tử trong bối cảnh bùng nổ hoạt động thương mại điện tử do đại dịch covid 19 toàn cầu vô tình đẩy nhanh tốc độ chuyển đổi số của các doanh nghiệp, đẩy nhanh phổ cập ứng dụng công nghệ thông tin, ứng dụng internet, ứng dụng nền tảng, bolckchain, sàn thương mại…phổ cập từ trung ương tới địa phương, từ thành thị đến nông thông…nhà nhà, người người dùng zalo, facebook, shopee, lazada…để giao dịch mua bán hàng hóa.

Với sự thay đổi và cập nhật khối lượng pháp luật thương mại điện tử theo nghị định 14 của Bộ công thương vào năm 2021 và chính thức có hiệu lực 01 tháng 01 năm 2022 nhưng theo quan sát và thống kê cho thấy chưa có sự thay đổi trong chương trình đào tạo ngành thương mại điện tử, chưa có hoạt động đào tạo, tái đào tạo nghị định này một cách bài bản cho cộng đồng người tham gia thương mại điện tử bao gồm cả người mua và người bán.

Hay nói cách khách, pháp luật thương mại điện tử chưa thực sự được trú trọng trong đào tạo chuyên ngành thương mại điện tử và cũng chưa được truyền thông tích cực và triệt để. Do đó, hệ quả của gian lận trong hoạt động kinh doanh bằng công cụ thương mại điện tử vẫn đang diễn ra thường xuyên, nhức nhối trong bối cảnh hiện nay.

2.5. Đánh giá chung

– Ưu điểm: Nhà nước và các cơ quan quản lý đã quan tâm đến ngành Thương mại điện tử, các trường đại học và cao đẳng đã có kịp thời mở ngành, chuyên ngành hoặc bổ sung học phần Thương mại điện tử để cung ứng nguồn nhân lực cho xã hội. Hệ thống phát luật được kiện toàn, các đầu mối quản lý như ban chỉ đạo 389, các tổ chức, cá nhân liên quan có tham gia ngành thương mại điện tử cụ thể hơn, phân cấp rõ ràng hơn.

– Nhược điểm: mặc dù Nhà nước, các cơ quan quản lý và các cơ sở đào tạo đã quan tâm đến nguồn nhân lực cung ứng cho ngành thương mại điện tử nhưng hệ thống thông tin, truyền thông chưa phát huy được triệt để trong việc cập nhật hệ thống luật pháp đổi mới, tuyên truyền các hoạt động vi phạm và hậu quả của hoạt động vi phạm TMĐT. Các cơ sở đào tạo chưa thực sự cập nhật chương trình đào tạo và chưa có đánh giá lại tính cấp thiết của các học phần nếu không đào tạo sẽ có thể là nguyên nhân làm tăng các vi phạm pháp luật, điển hình như học phần Pháp luật thương mại điện tử; Đạo đức trong kinh doanh…

  1. Một số giải pháp và Khuyến nghị

Để đạt được kế hoạch tổng thể và mục tiêu đề ra về phát triển thương mại điện tử từ nay đến 2025 của Quyết định số 645/QĐ-TTg ngày 15 tháng 5 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Nhóm tác giả có một số khuyến nghị như sau:

Một là, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực từ trong nhà trường. Cụ thể, các cơ sở giáo dục đào tạo đại học, cao đẳng cần trang bị khối kiến thức pháp luật kinh tế mà cụ thể là kiến thức pháp luật thương mại điện tử có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022 và thường xuyên cập nhật kiến thức pháp luật này với sinh viên.

Hai là, các cơ sở đào tạo cần phải phối hợp với các tổ chức liên quan đến TMĐT, với doanh nghiệp để có thông tin về nhu cầu nguồn nhân lực TMĐT. Từ  việc có thông tin nhu cầu về nguồn nhân lực mới có thể điều chỉnh, cập nhật chương trình đào tạo sát với nhu cầu của người sử dụng nhân lực và người có nhu cầu cập nhật kiến thức.

Ba là, các cơ sở đào tạo cần có chương trình tái đào tạo và đào tạo mới cho cựu sinh viên và với công dân, tổ chức tham gia ngành thương mại điện tử. Ví dụ như chương trình đào tạo về pháp luật thương mại điện tử, đạo đức kinh doanh …cho công dân theo xã, phường.

Bốn là, các cơ sở đào tạo phải cử giảng viên đi học, hội thảo nhiều hơn nữa từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước có hoạt động thương mại điện tử, từ đó có kinh nghiệm biên soạn giáo trình, tài liệu phục vụ kịp thời cho người học.

Năm là, Nhà nước, các cơ quan quản lý liên ngành cần cải tiến hơn nữa trong quy trình tác nghiệp, liên thông giửa các cơ quan tổ chức liên ngành như Cơ quan an ninh, cơ quan thuế, cơ quan hải quan…để góp phần làm môi trường kinh doanh TMĐT tạo được niềm tin với khách hàng và ngành thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ hơn cả về chất và lượng.

  1. Tài liệu tham khảo
  • Lưu Đan Thọ & Tôn Thất Hoàng Hải, “Thương mại điện tử hiện đại – Lý thuyết và tình huống ứng dụng của các công ty Việt Nam”, nhà xuất bản Tài Chính,
  • TS.NGƯT Nguyễn Văn Hồng & TS. Nguyễn Văn Thoan, “Giáo trình thương mại điện tử”, Nhà xuất bản Bách Khoa – Hà Nội, 2013.
  • Bộ môn thương mại điện tử, “Giáo trình thương mại điện tử căn bản”, Nhà xuất bản Đại học Ngoại thương – Hà Nội,
  • Sriram, M.Arumugam, Ecommerce     and      human resource management, International Conference on “Innovative Management Practices” Organize by SVCET, Virudhunaga, Vol-1 Issue-1 2016
  • Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam, “Chỉ số thương mại điện tử Việt Nam”, 2019.

Báo cáo thương mại điện tử Việt Nam, Cục thương mại điện tử và công nghệ thông tin, 2019.

[6] Th.S Phạm Thanh Bình, Phát triển nguồn nhân lực thương mại điện tử cho doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2020 -2025.

[7] Thương mại điện tử thời kỳ Công nghiệp 4.0; liên hệ với phát triển thương mại điện tử trên địa bàn thành phố Hà Nội 2020.

  • Thương mại điện     tử:        Liệu     có        hot       và        thu       nhập    tốt không
  • Phí Mạnh Cường (2020), “Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử”, Tạp chí Quản lý nhà nước số 295 (Tháng 8-2020)
  • Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (2021), Báo cáo Làn sóng thứ hai của thương mại điện tử 2021.
  • VCCI (2021), Báo cáo nghiên cứu Thương mại điện tử trên mạng xã hội tại Việt Nam: Một số vấn đề pháp lý.