Đại dịch virus corona làm bùng nổ thương mại điện tử châu Á

Nguyễn Trang (Theo Nikkei)

Các nhà bán lẻ thương mại điện tử trên khắp châu Á đã chứng kiến sự tăng trưởng doanh số bùng nổ trong cuộc khủng hoảng đại dịch khi người tiêu dùng phải ở trong nhà.

Với các cửa hàng bán lẻ truyền thống gần như bị đóng cửa, các biện pháp cách ly xã hội của chính phủ cũng đã đêm lại sự thúc đẩy bất ngờ cho các nền tảng thương mại điện tử thích hợp mà người tiêu dùng có thể chưa bao giờ ghé thăm.

Nhà cung cấp giải pháp quảng cáo kỹ thuật số Criteo cho biết nghiên cứu thị trường của họ chỉ ra, hơn 50% người tiêu dùng hiện có nhiều kế hoạch mua sắm trực tuyến hơn do đại dịch so với chỉ 17% cho biết họ sẽ thực hiện vài lần mua hàng kỹ thuật số.

“Chúng tôi đã thấy nhu cầu ngày càng tăng đối với các sản phẩm vệ sinh cá nhân và sức khỏe bao gồm khẩu trang và chất khử trùng tay, cùng với các nhu yếu phẩm hàng ngày khác như thực phẩm và đồ uống không thể phục hồi”, Zhou Junjie, giám đốc thương mại của nền tảng thương mại điện tử có trụ sở tại Singapore cho biết.

Shopee đã gặt hái được những lợi ích từ đại dịch, với tổng giá trị hàng hóa tăng vọt 74,3% để đạt 6,2 tỷ đô la trong quý đầu tiên.

Tổng số đơn đặt hàng trên Shopee đạt 429,8 triệu trong quý đầu tiên, so với 203,5 triệu cho cùng kỳ năm ngoái, tăng 111,2%.

Shopee, một trong những nền tảng thương mại điện tử có lưu lượng truy cập web lớn nhất Đông Nam Á, đã đưa ra một chương trình dành cho người tiêu dùng mua các mặt hàng liên quan đến nấu nướng, làm việc, giải trí và miễn phí vận chuyển.

Công ty mẹ Sea Group trong tháng này cho biết họ đang quan tâm đến việc mở rộng kinh doanh và thương vụ sáp nhập tiềm năng với số tiền thu được từ việc cung cấp một chuyển đổi trị giá 1 tỷ đô la vào năm 2025.

“Tình hình virus corona đã thúc đẩy sự thay đổi lối sống trực tuyến rộng, sâu và chúng tôi tin rằng, không thể đảo ngược”, Zhou của Shopee nói.

Những công ty trong ngành đã nhanh chóng đưa ra các chiến dịch để nắm bắt sự thay đổi này và đảo ngược tình trạng tiêu thụ chung trên toàn thế giới.

Tuần trước, CapitaLand của Singapore, một trong những tập đoàn bất động sản lớn nhất châu Á đã tuyên bố sẽ giới thiệu một nền tảng thương mại điện tử mới có tên eCapitaMall kết hợp cùng các cửa hàng bán lẻ vật lý trong trung tâm thương mại của công ty.

“Là nhà điều hành mạng lưới trung tâm mua sắm lớn nhất Singapore, chúng tôi muốn giúp các nhà bán lẻ tiếp cận nhiều người tiêu dùng và cơ hội kinh doanh trực tuyến hơn”, Chris Chong, Giám đốc điều hành bán lẻ tại CapitaLand Singapore cho biết.

Tại Trung Quốc, các nền tảng thương mại điện tử đã tham gia vào một lễ hội mua sắm mới, tại Thượng Hải, có tên “Double Five”, sau ngày 5/5 kể từ khi ra mắt. Theo Ủy ban thương mại của trung tâm tài chính Trung Quốc, sự kiện này đã thu về 2,2 tỷ đô la Mỹ trong 24 giờ đầu tiên.

Hàng tỷ nhân dân tệ dưới dạng phiếu giảm giá trực tuyến và giảm giá đã được phân phối cho chiến dịch, dự kiến kéo dài trong hai tháng với sự tham gia của các nhà bán lẻ kỹ thuật số thậm chí hợp tác với các cửa hàng ngoại tuyến để bán những món đồ lớn như xe sang.

Công ty quản lý đầu tư có trụ sở tại Hoa Kỳ, Invesco lưu ý rằng ở Trung Quốc, thâm nhập bán lẻ trực tuyến đạt 28,2% trong quý đầu tiên năm 2020, tăng từ 23% trong cùng kỳ năm ngoái; khi chính quyền Trung Quốc thi hành các biện pháp cách ly xã hội để làm chậm tốc độ nhiễm virus corona.

“Các nhà bán lẻ điện tử có thể sẽ tiếp tục giành được thị phần trong thị trường bán lẻ. Chúng tôi tin rằng sẽ có sự tập trung hơn trong việc phát triển và tinh chỉnh các tương tác với khách hàng để đảm bảo doanh số trực tuyến đạt hiệu quả hơn”, William Yuen, Giám đốc Đầu tư của Invesco nói với Nikkei.

Những thách thức mà các công ty phải đối mặt xoay quanh việc hoàn thành việc giao hàng khi sự gia tăng mua sắm trực tuyến đối với các mặt hàng nhu yếu phẩm gặp phải khủng hoảng logistic khi đại dịch phá vỡ chuỗi cung ứng quốc tế khi các bộ phận của các nền kinh tế trên thế giới gia ngừng hoạt động để ngăn chặn virus.

“Chúng tôi thấy các công ty đã hoạt động dựa trên những khuyến cáo của chính phủ và phải sửa lại cách hàng hóa được giao từ kho đến tay khách hàng cuối cùng”, Yuen nói.

Arne Jeroschewski, đồng sáng lập công ty cung cấp dịch vụ theo dõi gói Parcel Performance, cho biết tại một hội thảo trực tuyến về tác động của đại dịch đối với các công ty công nghệ, một số nhà kho đã phải đóng cửa khi các công nhân có triệu chứng nhiễm COVID-19, dẫn đến chuỗi cung ứng phải ngừng hoạt động.

“Có một vấn đề đó là hàng hóa được đặt mua không khớp với hàng tồn kho. Không phải ai cũng mua những thứ giống như họ đã mua trước đây. Vì vậy, rất nhiều mặt hàng đã hết hàng và gần như không thể có được những mặt hàng đó trong kho một cách nhanh chóng”, ông giải thích.

Sachin Kapur, Giám đốc tiếp thị cao cấp tại Coupang, một trong những người chơi thương mại điện tử lớn nhất của Hàn Quốc cho biết công ty của ông đã phải làm việc chăm chỉ hơn để giữ lời hứa với khách hàng.

“Chúng tôi đã tạo ra các giao thức rất chi tiết trong toàn tổ chức, về mặt đội ngũ, logistic, các thành phố để đảm bảo trong khi chúng tôi giữ an toàn và vệ sinh của nhân viên là ưu tiên hàng đầu, chúng tôi vẫn sẽ cung cấp được càng nhiều gói hàng càng tốt”, ông nói tại một hội thảo trên web thảo luận về cách các doanh nghiệp phản ứng với COVID-19.

Những công ty trong ngành cũng đã hợp tác với nhau để giải quyết các rào cản do đại dịch. Bukalapak, công ty thương mại điện tử của Indonesia đã hợp tác với Grab và Gojek là đối thủ và nhà sản xuất ‘siêu ứng dụng’ di động bao gồm các chức năng giao hàng để tiếp cận khách hàng.

“Chúng tôi đang có rất nhiều sáng kiến để thực sự tăng tỷ lệ giữ chân khách hàng, chẳng hạn như tặng cho họ một phiếu giảm giá hoặc giảm giá cho lần mua tiếp theo, và cũng đưa ra (tùy chọn) mua hàng kèm theo dịch vụ giao hàng ngay lập tức”, Anugrah Mardi Honesty , trưởng phòng tiếp thị hiển thị của Bukalapak cho biết tại cùng hội thảo trên web có Coupang tham dự.

Gojek cho biết họ đã chứng kiến mức tăng trưởng 10% trong các giao dịch đối với dịch vụ giao hàng GoFood của mình vào đầu tháng 5 so với cuối tháng 4, các dịch vụ cung cấp đồ ăn nhẹ trên nền tảng này đã tăng 30%. GoFood đã thêm các dịch vụ mua sắm thực phẩm và mặt hàng chủ lực từ các cửa hàng tiện lợi.

Decacorn cũng đã hợp tác với Bộ Nông nghiệp Indonesia để giúp nhiều nông dân và người bán hàng ở địa phương, được gọi là “Chợ Mitra Tani” ở nước này chuyển sang bán hàng trên trực tuyến và bán hàng hóa chủ lực.

“Trước đại dịch COVID-19, chúng tôi đã bán khoảng 1 đến 1,5 tấn gạo. Bây giờ trong thời kỳ COVID-19, chúng tôi thực sự đã trải qua sự gia tăng doanh số từ 25% đến 50% sau khi Mitra Tani lên mạng”, Agus Widodo, một người địa phương cho biết.

Đối với nền tảng thương mại điện tử của Việt Nam, Sendo, đại dịch đã thúc đẩy tìm kiếm sự hợp tác với các đối tác nước ngoài để mở rộng phạm vi lựa chọn cho người tiêu dùng đã lên mạng để mua sắm.

“Chúng tôi đã trao đổi với các thương hiệu đa quốc gia lớn như Unilever hoặc Procter & Gamble và giúp họ thiết lập một cửa hàng trên Sendo để cung cấp các sản phẩm thiết yếu cho khách hàng”, Đức Phạm, Phó Giám đốc Tiếp thị cho biết.

Clement Lee, nhà đồng sáng lập của tập đoàn thương mại điện tử Synagie Corporation có trụ sở tại Singapore cho biết đại dịch đã thay đổi đáng kể thói quen và lối sống của người tiêu dùng, ông dự đoán đây sẽ là di sản của cuộc khủng hoảng sức khỏe toàn cầu.

“Mọi người sẽ làm việc tại nhà, và cũng mua sắm tại nhà, điều đó đem lại những cơ hội to lớn cho ngành thương mại điện tử mà mọi doanh nghiệp đều phải nắm lấy” ông cho biết